

Con gái người đề xuất tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh
PNO – Ngày 2/7/1976, Quốc hội quyết định đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng từ trước đó rất lâu, tháng 8/1954, trong bài thơ Ta đi tới, nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Ai đi Nam Bộ, Tiền Giang, Hậu Giang/ Ai vô Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng”. Lần giở những trang báo năm xưa, tôi mới biết, người đề xuất tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp.
Nguyện ước về Nam để cống hiến
Ngày 27/8/1946, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã nêu ra ý tưởng và nhận được sự tán thành của nhiều nhân sĩ miền Nam yêu nước, thành một bản kiến nghị gửi lên Chính phủ. Báo Cứu Quốc năm ấy cũng đã có bài viết với nhan đề Thành phố Sài Gòn từ nay sẽ đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (1911-2006) là người đã cùng bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng xây dựng nền dân y miền Nam từ giữa năm 1947. Năm 1956, ông là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cán bộ y tế trung ương. Với những cống hiến của mình, ông được Nhà nước phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động.

Bác sĩ Trần Kiều Miên
Hồi bấy giờ, chiến trường miền Nam ngày càng ác liệt. Nguyện vọng về Nam khi ấy được gọi là đi B, thể hiện một lòng yêu nước nồng nàn, lòng dũng cảm và lý tưởng về ngày đất nước thống nhất. Cô sinh viên mới ra trường ấy hỏi Bộ Y tế và được cho lời khuyên chân thành là trình độ bác sĩ mới ra trường còn non lắm, nên trau dồi, học hỏi thêm để phục vụ tốt nhất ở chiến trường B. Nghe lời khuyên, cô quyết định ban đầu theo ngành hồi sức cấp cứu.
Cuộc gặp với người cha là bác sĩ vào cuối năm 1974, sau hơn 10 năm xa cách, đã đẩy dự định của cô sang một hướng khác. Nghe con nói nguyện vọng của mình, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp khuyên: “Con là người miền Nam, muốn về miền Nam phục vụ tốt nhất cho nhân dân mình thì nên học chuyên ngành tiêu hóa và phải học cho thật giỏi bởi miền Nam là miền sông nước, bệnh về đường tiêu hóa rất nhiều”.
Vậy là bác sĩ Kiều Miên quyết định đi theo chuyên ngành tiêu hóa. Cô được học bổng toàn phần chuyên ngành tiêu hóa tại Đại học Rostock (Cộng hòa Dân chủ Đức). Tại đây, cô học chuyên sâu thêm về nội soi tiêu hóa, đặc biệt học sâu thêm về nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP: Endoscopic Retrograde Cholangio Pancreatography) là kỹ thuật rất hiện đại và mới mẻ lúc đó.

Bác sĩ Trần Kiều Miên bên tượng cha
Cần biết thêm rằng, cho đến nay, ERCP vẫn là một kỹ thuật đầy thách thức, khó khăn và làm ERCP rất thường bị “ăn” tia X-quang, có thể gây nguy hại, nên rất ít nữ bác sĩ theo đuổi. Chấp nhận thử thách để học thật giỏi một chuyên ngành khó cho thấy lòng yêu nước và ý chí phục vụ cao cả của cô bác sĩ trẻ.
Ứng dụng giải Nobel y học để chữa bệnh cho dân
Tốt nghiệp thực tập sinh Đại học Rostock vào cuối năm 1977 thì đầu năm 1978, bác sĩ Kiều Miên về TPHCM để tham gia giảng dạy và làm việc tại Khoa Nội, Trường đại học Y Dược TPHCM. Đóng góp cho ngành y tế TPHCM nói riêng và y học nước nhà nói chung của cô thật to lớn, đặc biệt là việc ứng dụng những thành quả của giải Nobel y học năm 2005 để chữa bệnh cho dân mình.
Trước đây, giới y học thường cho rằng loét dạ dày – tá tràng chủ yếu là do acid clohydric (HCl) nên có câu “No acid, no ulcer”, tức là “Không a xít thì không loét”. Để làm giảm a xít trong dạ dày, người ta thường dùng thuốc kháng a xít và kết luận tạm thời là tốt. Nhưng đến năm 1978, một nhà tiêu hóa học hàng đầu thế giới tuyên bố gây sững sờ: “Dùng thuốc kháng a xít để điều trị loét dạ dày – tá tràng thì tái phát là đương nhiên”. Vậy là phải tìm nguyên nhân khác và trong lịch sử y học, nguyên nhân khác ấy thường liên quan tới vi trùng.
Nhưng cho đến lúc đó, người ta không thể tưởng tượng được rằng, trong môi trường a xít rất khắc nghiệt của dạ dày, lại có một vi trùng sống được và gây hại. Vào mùa Phục sinh 1982, 2 nhà khoa học người Úc đã nuôi cấy được một chủng vi trùng trong dạ dày. Bài báo của 2 nhà khoa học này trên tờ Lancet 1983 với nhan đề Về một chủng vi trùng ở trong dạ dày đã gây tiếng vang lớn trong giới khoa học.

Bác sĩ Trần Kiều Miên (phải) và tác giả bài báo này khi ở Hàn Quốc tham dự hội nghị tiêu hóa châu Á – Thái Bình Dương năm 2018
Ngành y học Việt Nam thời ấy nghi ngờ trước phát kiến y học này nhưng trong hội nghị tiêu hóa châu Á – Thái Bình Dương tại Sydney năm 1994, bác sĩ Kiều Miên có dịp gặp bác sĩ Marshall – 1 trong 2 nhà khoa học người Úc nuôi cấy được chủng vi trùng trong dạ dày – và lập tức bị chinh phục bởi những bằng chứng khoa học về vi trùng HP. Tìm hiểu sâu thêm về vi trùng HP, cô quyết định đưa điều này vào chương trình giảng dạy y khoa năm 1995. Đây là một quyết định thông minh nhưng đầy dũng cảm.
Xét nghiệm CLO test tìm vi trùng HP thời bấy giờ cũng rất đắt (khoảng 5 USD/test) nhưng HP lại chưa được biết đến nhiều ở Việt Nam nên 5 USD càng trở nên đắt đỏ. Bây giờ, giáo sư Phạm Hoàng Phiệt – Chủ nhiệm bộ môn miễn dịch – sinh lý bệnh, Trường đại học Y Dược TPHCM – đã nghiên cứu ra mẫu test rẻ nhưng vẫn chính xác, tương tự mẫu CLO test của Úc. Những mẫu test này được đưa vào sử dụng ở Bệnh viện Đại học y dược TPHCM ngay từ lúc mới được thành lập (năm 1996) và cho những kết quả rất tốt.
Năm 2004, bác sĩ Kiều Miên mời bác sĩ Marshall đến Việt Nam thuyết trình những vấn đề liên quan đến vi trùng HP. Những bài giảng của bác sĩ Marshall là vốn rất quý lúc ấy, vì đến năm 2005, ông cùng đồng sự được nhận giải Nobel y học cho nghiên cứu này. Bằng tài năng, sự tôn trọng khoa học, bác sĩ Kiều Miên đã tiếp thu, giảng dạy, thực hành một phát kiến mới trong y học, đưa vào chữa bệnh cho người Việt Nam một cách hiệu quả và kinh tế nhất.
46 năm đã trôi qua kể từ khi trở về Nam, trở về TPHCM, con gái của người gợi ý tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần rất lớn trong việc chăm sóc bệnh đường tiêu hóa, đặc biệt là việc đưa những hiểu biết về vi trùng HP đến với sinh viên y khoa, bác sĩ chuyên ngành tiêu hóa, giúp các bác sĩ gặp gỡ những chuyên gia hàng đầu trên thế giới để học tập và trao đổi. Thuốc Gastrostat được sử dụng đầu tiên để điều trị nhiễm trùng HP thời ấy chỉ còn là hoài niệm nhưng lại là một hoài niệm lẫy lừng cho những phác đồ điều trị HP sau này, góp phần chăm lo sức khỏe hàng triệu người Việt Nam.
Về Nam. Về Nam. Về Nam. Nguyện vọng về Nam giúp đỡ dân mình ấy đã thành hiện thực một cách đặc biệt xuất sắc. Tiếp bước cha mình – thầy Trần Hữu Nghiệp – bác sĩ Trần Kiều Miên đã, đang và sẽ là niềm tự hào của người Sài Gòn – TPHCM do những cống hiến cho nền y học nước nhà.
Bác sĩ Trần Quốc Vĩnh
(Phòng khám Đa khoa Quốc tế Yersin)
Nguồn báo phụ nữ online
Thông báo V/v Bài đăng trên tạp chí Y Học Việt Nam



Thông báo V/v Tổ chức Hội nghị khoa học kỹ thuật nhân Đại hội nhiệm kỳ X và Kỷ niệm 45 năm thành lập Hội Y học Tp Hồ Chí Minh

Thông báo V/v Đăng ký bài báo cho Hội nghị Khoa học Tiêu hóa toàn quốc năm 2024
Kính chào Quý đồng nghiệp,
Liên chi hội khoa học Tiêu hóa TPHCM xin gửi đến quý đồng nghiệp thông báo về việc đăng ký bài báo cho Hội nghị Khoa học Tiêu hóa toàn quốc lần thứ 30 (8-9/11/2024) tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội
Hạn chót: ngày 30/09/2024
Liên hệ gửi bài như sau: BS.CKII Lê Đình Quang – Địa chỉ email gửi bài (khu vực phía nam): dinhquangledr@yahoo.com.
Rất mong Quý đồng nghiệp quan tâm, tích cực hưởng ứng, đăng ký tham gia báo cáo khoa học tại Hội nghị Khoa học Tiêu hóa toàn quốc năm 2024.
Trân trọng kính chào.
 
  
 
Thông báo V/v Tổ chức Hội nghị khoa học kỹ thuật nhân Đại hội nhiểm kỳ X và Kỷ niệm 45 năm thành lập Hội Y học Tp Hồ Chí Minh

Bệnh lý tiêu hóa từ góc nhìn đa chuyên khoa
Ngày 14/4, Liên chi Hội Khoa học Tiêu hóa TP.HCM (AGH), với sự hỗ trợ của hãng dược phẩm AstraZeneca, đã tổ chức hội nghị khoa học “Phòng ngừa và điều trị bệnh lý đường tiêu hóa trên từ góc nhìn đa chuyên khoa”.
Hội nghị thuộc chương trình đào tạo y khoa liên tục của AGH. Hơn 400 bác sĩ đang hành nghề tại khu vực Đông Nam bộ, Tây Nam bộ đã tới TP.HCM tham dự hội nghị. Báo cáo viên là những chuyên gia đầu ngành về cơ xương khớp, hô hấp và tiêu hóa.

Phát biểu khai mạc hội nghị, BS-CKII. Trần Kiều Miên- Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu hóa Việt Nam, Chủ tịch AGH, khẳng định rằng đa chuyên khoa hóa góc nhìn bệnh lý tiêu hóa là chiến lược mới của AGH. Theo BS. Kiều Miên, từng cơ quan trong cơ thể người đều có mối liên hệ, tác động qua lại. Vì vậy, không thể tách rời bệnh lý tiêu hóa trong tiếp cận, đánh giá, phòng ngừa và điều trị.
“Theo chiến lược mới này, AGH đã tổ chức hội nghị khoa học trước đó với góc nhìn của các chuyên gia tim mạch trong phòng ngừa và điều trị bệnh lý tiêu hóa. Hôm nay, AGH tiếp tục tiếp tục góc nhìn đa chuyên khoa về bệnh lý tiêu hóa, cụ thể là bệnh lý đường tiêu hóa trên, với các chuyên gia cơ xương khớp và hô hấp. Rất mong các bác sĩ dự hội nghị cập nhật kiến thức và kinh nghiệm, áp dụng hiệu quả vào thực tế lâm sàng…”- BS. Kiều Miên phát biểu.

TS-BS. Tăng Hà Nam Anh- Chủ tịch Hội Nội soi khớp và thay khớp Việt Nam, chuyên gia đầu ngành về cơ xương khớp ở phía Nam, đã mở đầu chương trình báo cáo khoa học với chủ đề “Quản lý tối ưu tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa do NSAID”. Được biết, NSAID là nhóm thuốc giảm đau, kháng viêm không Steroid, thường được dùng trong điều trị bệnh lý cơ xương khớp.
Theo chuyên gia, nhóm thuốc NSAID được sử dụng rộng rãi để kiểm soát đau và viêm, với khoảng 30 triệu dân toàn thế giới bớt đau đớn mỗi ngày, với 700 triệu toa thuốc được kê mỗi năm. Ở nhiều quốc gia, NSAID thậm chí được mua mà không cần toa. Song, nhóm thuốc NSAID có không ít tác dụng ngoại ý trên đường tiêu hóa.
Chuyên gia cũng dẫn kết quả nghiên cứu cho thấy, ước tính từ 15% đến 40% bệnh nhân dùng NSAID gặp phải các triệu chứng ở đường tiêu hóa trên. Phần lớn bệnh nhân bị tổn thương dạ dày sai liều NSAID đầu tiên, còn 10% tới 25% bệnh nhân dùng NSAID kéo dài phát triển thành loét. 80% số ca tử vong liên quan đến loét dạ dày, tá tràng xảy ra ở người sử dụng NSAID…
Đi sâu vào vấn đề tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa do NSAID, chuyên gia khẳng định acid dịch vị đóng vai trò trung tâm, đồng thời phụ thuộc rất nhiều vào độ kềm trong dịch vị. Để điều trị và dự phòng loét niêm mạc đường tiêu hóa, chuyên gia đề xuất dùng Esomeprazole 20mg (một loại thuốc ức chế bơm proton-PPI), hoặc thuốc PPI khác (với liều tương đương)…

Trong đề tài “Nhận diện và điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) trên người bệnh hô hấp”, TS-BS. Lê Khắc Bảo- Phó Chủ tịch Hội Y học giấc ngủ Việt Nam, Phó Trưởng khoa Hô hấp BV Nhân dân Gia Định, đã bàn luận về tính phổ biến của GERD trên người bệnh hô hấp. Theo chuyên gia, đối với người bệnh đến khám hô hấp vì ho kéo dài, kể cả người biết và không biết bệnh nền, thì phải đặt ra câu hỏi lâm sàng: Liệu GERD có phải là nguyên nhân.
Chuyên gia đã chỉ ra tần suất GERD biểu hiện qua triệu chứng hô hấp, với 13% ho mạn, 10% trào ngược họng thanh quản, 5% hen. Đáng chú ý, với người mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn trong lúc ngủ, các nghiên cứu cho thấy tăng tuyến acid dẫn tới GERD. Mối liên hệ giữa 2 bệnh lý này là càng tắc nghẽn thở trong lúc ngủ thì càng gồng, càng ráng thở, mà càng cố thì càng đưa acid lên cao (GERD nặng hơn). Khi GERD nặng hơn thì tần suất tắc nghẽn thở trong lúc ngủ càng nhiều hơn… Các mối liên hệ giữa người mắc các bệnh lý hô hấp khác như bệnh phổi mô kẻ, tắc nghẹn phổi mạn tính… với GERD cũng được chuyên gia đề cập.
Vấn đề chẩn đoán và điều trị GERD đối với bệnh nhân hô hấp, theo chuyên gia, dùng nhóm thuốc PPI điều trị thử trong khoảng 1 tới 2 tuần để khẳng định GERD là cách thực tế các bác sĩ hô hấp thường dùng. Sau khi xác định rõ ho kéo dài do GERD, ngoài biện pháp dùng thuốc, cũng với nhóm PPI, các bác sĩ hô hấp còn tăng cường hướng dẫn bệnh nhân thay đổi lối sống để không dùng thuốc.
Các khuyến cáo bao gồm: Tránh ăn uống 3 giờ trước khi ngủ; tránh nằm nghiêng bên phải với gối chống nghiêng; tránh uống rượu, cà phê, nước uống có ga, hút thuốc lá; giảm cân nặng; nâng cao đầu giường hoặc dùng gối tránh trào ngược; ăn mỗi bữa ít với 4, 5 bữa nhỏ thay vì chỉ 3 bữa lớn; tránh thức ăn nhiều gia vị, nhiều mỡ, tránh nằm ngay sau ăn; tránh mặc quần áo quá chật; nhai kẹo cao su để tăng tiết nước bọt trung hòa acid…

Sau góc nhìn đa chuyên khoa, PGS-BS. Quách Trọng Đức- Phó Chủ tịch Hội khoa học Tiêu hóa Việt Nam, đã đưa hội nghị trở lại chuyên môn sâu về tiêu hóa với đề tài “Xử trí GERD và phòng ngừa biến chứng NSAID: Góc nhìn tiêu hóa”. Chuyên gia đã cập nhật quan điểm mới nhất 2024 về với các Đồng thuận liên quan. Đây được xem là các hướng dẫn khoa học giúp bác sĩ chuyên ngành tiêu hóa nhận diện và điều trị GERD.
Trong nội dung phòng ngừa biến chứng tiêu hóa do NSAID (nhóm thuốc giảm đau, kháng viêm không Steroid), chuyên gia đã làm rõ hơn cơ chế tổn thương niêm mạc tiêu hóa do NSAID. Đồng thời chỉ ra nguy cơ loét dạ dày, tá tráng do NSAID với từng loại cụ thể. Đặc biệt, chuyên gia còn cảnh báo tình trạng tổn thương đường tiêu hóa dưới do NSAID đang ngày càng nhiều hơn, trở thành thách thức lớn với các bác sĩ chuyên ngành tiêu hóa…

Chuyên gia kết luận rằng, trong xử trí GERD, tiêu chuẩn vàng chẩn đoán đã có nhưng khó áp dụng trong tiếp cận ban đầu. Thực tế lâm sàng dựa trên triệu chứng và điều trị thử ban đầu. Trong xử trí GERD cần phối hợp thay đổi lối sống và dùng thuốc, với thuốc nền tảng tới thời điểm này là PPI.

Đối với phòng ngừa biến chứng do NSAID, chuyên gia khuyến cáo nên kiểm tra, diệt trừ H. pylory nếu dự kiến điều trị lâu dài; PPI giúp phòng ngừa biến chứng đường tiêu hóa trên nhưng không ngừa được tổn thương đường tiêu hóa dưới…
Thanh Giang
Phòng ngừa, điều trị loét dạ dày trên người bệnh cơ xương khớp và GERD dưới góc nhìn hô hấp
Đó là nội dung của chương trình đào tạo y khoa liên tục do Liên chi hội Khoa Học Tiêu Hóa TPHCM với chủ đề “Phòng ngừa và điều trị bệnh lý tiêu hóa trên góc nhìn đa chuyên khoa” tổ chức sáng 14/4/2024, thu hút gần 450 bác sĩ, chuyên viên y tế từ TPHCM và các tỉnh lân cận đến tham dự.
Thông qua 3 bài báo cáo, các chuyên gia đã đem đến cái nhìn đa chiều về bệnh lý đường tiêu hóa trên dưới góc độ cơ xương khớp, hô hấp và tiêu hóa.
BS.CK2 Trần Kiều Miên – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam, Chủ tịch Liên chi Hội Khoa học Tiêu hóa TPHCM chia sẻ: “Con người là một khối thống nhất, chúng ta không thể tách rời cơ quan này ra khỏi cơ quan khác. Trong chương trình hôm nay, chúng ta xem xét sự liên quan giữa việc điều trị cơ xương khớp, hô hấp với sự tăng tiết axit và các bệnh lý đường tiêu hóa trên, bên cạnh đó còn tìm hiểu cách sử dụng các loại thuốc NSAID như thế nào trong bệnh lý đường tiêu hóa.
Đó cũng chính là mục đích chúng tôi tổ chức hội thảo này. Trong đó, 3 bài báo cáo đã đi sâu vào hai vấn đề: Sử dụng PPI và thuốc NSAID thế nào trong bệnh lý cơ xương khớp và bệnh lý đường hô hấp kéo dài, ho mạn tính có liên quan đến bệnh lý trào ngược dạ dày thực quản”.

BS.CK2 Trần Kiều Miên – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam, Chủ tịch Liên chi Hội Khoa học Tiêu hóa TPHCM phát biểu khai mạc chương trình

Chương trình thu hút gần 450 bác sĩ, chuyên viên y tế từ TPHCM và các tỉnh lân cận đến tham dự
50 – 60% các trường hợp loét dạ dày tá tràng liên quan đến NSAIDs
Trong bài báo cáo “Quản lý tối ưu tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa do NSAIDs” – TS.BS Tăng Hà Nam Anh – Chủ tịch Hội Nội soi khớp và Thay khớp Việt Nam cho biết, có 4 kiểu đau thường gặp: đau cơ học, đau do viêm, đau xơ cơ, đau thần kinh. Thuốc chống viêm không steroid – NSAIDs luôn là nhóm thuốc đầu tay trong điều trị các bệnh lý cơ xương khớp. NSAIDs được sử dụng rộng rãi để kiểm soát đau và viêm, khoảng 700 triệu toa thuốc được kê mỗi năm và 40% bệnh nhân sử dụng NSAIDs trên 60 tuổi.
Tuy nhiên, NSAIDs có liên quan đáng kể đến các biến chúng dạ dày tá tràng. Nguy cơ tương đối về rối loạn thực quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp dùng NSAIDs cao gấp đôi so với những bệnh nhân không dùng. 50 – 60% các trường hợp loét dạ dày tá tràng liên quan đến NSAIDs, xuất hiện lần đầu tiên như 1 biến chứng của thuốc, tổn thương đã xuất hiện âm thầm trước đó.
Trong một nghiên cứu trên 2.000 bệnh nhân đang điều trị bằng NSAID, 15% bệnh nhân có các triệu chứng ở đường tiêu hóa trên nhưng tỷ lệ lở loét không khác nhau giữa bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng. TS.BS Tăng Hà Nam Anh cho biết: “Trước khi xuất hiện một biến chứng tiêu hóa, hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng báo trước”.

TS.BS Tăng Hà Nam Anh – Chủ tịch Hội Nội soi khớp và Thay khớp Việt Nam
Bài báo cáo đề cập đến nguy cơ xuất huyết tiêu hóa tăng khi số lượng các yếu tố nguy cơ tăng lên. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: tuổi tác cao, liệu pháp NSAIDs liều cao, tiền căn loét, sử dụng aspirin, corticosteroids hoặc kháng đông,…
Khi nói về dự phòng lở loét và biến chứng do NSAIDs và Aspirin, TS.BS Tăng Hà Nam Anh khẳng định: “PPI là thuốc hiệu quả nhất trong điều trị và phòng ngừa các tổn thương, biến chứng và triệu chứng do thuốc gây ra”. Theo thử nghiệm lâm sàng, Esomeprazone 20mg có hiệu quả hơn các PPI khác trong việc chữa lành và ngăn ngừa lở loét do NSAIDs.
Cảnh giác bệnh trào ngược dạ dày thực quản trên bệnh nhân hô hấp
Chia sẻ về “Nhận diện và điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) trên người bệnh hô hấp”, TS.BS Lê Khắc Bảo – Phó Chủ tịch Hội Y học giấc ngủ Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Giáo dục Y học, Đại Học Y Dược TP.HCM cho biết, dù GERD là bệnh tiêu hóa nhưng có thể biểu hiện ra bằng các bệnh hô hấp.
BS dẫn chứng có đến 13% các trường hợp GERD biểu hiện bằng ho kéo dài, 10% biểu hiện bằng trào ngược họng thanh quản và 5% có triệu chứng như hen. “Những con số này nhắc nhở bác sĩ khi bệnh nhân ho kéo dài cũng có khả năng là do trào ngược dạ dày thực quản, dù biểu hiện giống bệnh hô hấp nhưng không phải là bệnh hô hấp” – TS.BS Lê Khắc Bảo nói.
GERD là nguyên nhân gây ho kéo dài trong khoảng 20% trường hợp và là bệnh đồng mắc hay gặp của hen, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ và bệnh phổi mô kẽ.

TS.BS Lê Khắc Bảo – Phó Chủ tịch Hội Y học giấc ngủ Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Giáo dục Y học, Đại Học Y Dược TP.HCM
TS.BS Lê Khắc Bảo chỉ ra thừa cân béo phì, hút thuốc, uống rượu bia và hoạt động quá mức là những yếu tố nguy cơ GERD trên người ho mạn. Nhận diện GERD trên người bệnh hô hấp dựa trên các yếu tố nguy cơ, đặc điểm ho mạn và các triệu chứng ngoài tiêu hóa của GERD. Chẩn đoán xác định GERD thường nhất là điều trị thử PPI liều cao 1 – 2 tuần. TS.BS Lê Khắc Bảo cũng lưu ý rằng, PPI chỉ hiệu quả trên hen có triệu chứng GERD rõ và triệu chứng hen về đêm.
Ho kéo dài do GERD có thể điều trị bằng các biện pháp thay đổi lối sống, điều trị bằng thuốc và phẫu thuật. BS khuyên bệnh nhân tránh ăn uống 3 giờ trước khi ngủ không ngủ nằm nghiêng phải; giảm cân; hạn chế rượu, cà phê, nước uống có ga và thuốc lá; tránh thức ăn nhiều gia vị, nhiều mỡ; chia thành 4 – 5 bữa ăn nhỏ mỗi ngày; tránh nằm ngay sau khi ăn; dùng gối chống trào ngược.
Đối với biện pháp dùng thuốc, các loại thuốc có thể sử dụng là Sucralfate, Cimetidine, Baclofen,…TS.BS Lê Khắc Bảo khẳng định: “Điều trị GERD cần phối hợp thay đổi lối sống và điều trị bằng thuốc với nòng cốt là PPI. Tùy theo tình hình đáp ứng, có thể tăng hoặc giảm liều PPI cho phù hợp với bệnh nhân”.
Thói quen ăn uống, sinh hoạt liên quan khởi phát triệu chứng trào ngược ở người Việt
Trong chương trình, PGS.TS.BS Quách Trọng Đức – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam, Bộ môn Nội tổng quát – Đại học Y dược TP.HCM đã trình bày phần báo cáo với chủ đề “Xử trí GERD và phòng ngừa biến chứng NSAIDs: Góc nhìn tiêu hóa”.
PGS.TS.BS Quách Trọng Đức nhận định: “Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán đã có nhưng khó áp dụng trong tiếp cận ban đầu do quá xâm lấn và sử dụng các thiết bị phức tạp, không thường quy và tốn kém cho bệnh nhân. Thực tế lâm sàng dựa trên triệu chứng và điều trị thử ban đầu nếu không có triệu chứng báo động”. Theo đồng thuận LYON, phương pháp chẩn đoán GERD thường dùng nhất là nội soi. Các phương pháp đo pH và trở kháng thực quản, đo chức năng vận động thực quản độ phân giải cao vẫn chưa phổ biến.
PGS.TS.BS Quách Trọng Đức cho biết, thói ăn uống, sinh hoạt liên quan khởi phát triệu chứng trào ngược ở người Việt. Trong đó, các thói quen như ăn quá no, ăn trước khi ngủ chỉ 2 tiếng đồng hồ, thức ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu bia, nước ngọt là nguyên nhân chính làm khởi phát GERD.
Theo hướng dẫn của Hội Tiêu hóa Mỹ năm 2022, vấn đề chẩn đoán, tiếp cận và điều trị GERD có hai phần quan trọng, quyết định chiến lược. Đầu tiên là tiếp cận, đưa ra điều trị thử tùy thuộc vào bệnh nhân có triệu chứng điển hình (ợ nóng – cảm giác nóng rát sau xương ức khi ở tư thế gập người, nằm ngay sau ăn) hay không. Trường hợp bệnh nhân có triệu chứng cổ điển (ợ nóng, ợ trớ) mà không có triệu chứng báo động, được khuyến cáo sử dụng PPI trong ít nhất 8 tuần. Nếu sử dụng ít hơn 8 tuần, các triệu chứng sẽ tái phát thường xuyên hơn. Khi bệnh nhân có triệu chứng điển hình và đáp ứng thuốc, bác sĩ sẽ giảm liều và ngưng thuốc chứ không sử dụng liên tục.
Trường hợp bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình như ho kéo dài, tằng hắng, vướng họng, bác sĩ cần hỏi bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình kèm theo không. Nếu không có, cần phải cân nhắc vì điều trị PPI hiếm khi nào cho thấy đáp ứng tốt. Nếu bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình, khuyến cáo là có thể điều trị thử PPI liều gấp đôi, thời gian kéo dài đến 12 tuần.
“Để xử trí trào ngược dạ dày thực quản cần thay đổi lối sống kết hợp với dùng thuốc, trong đó PPI là thuốc nền tảng ở thời điểm hiện tại” – PGS.TS.BS Quách Trọng Đức khẳng định.

PGS.TS.BS Quách Trọng Đức – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam, Bộ môn Nội tổng quát – Đại học Y dược TPHCM
Khảo sát trên 171 bệnh nhân liên tiếp bị xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày – tá tràng nhập Bệnh viện Nhân dân Gia Định cho thấy tỷ lệ nhiễm H.pylori trên bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa là 94,1% và 25,1% có tiền sử sử dụng NSAID. “Như vậy, có một số lượng rất lớn bệnh nhân vừa có NSAIDs vừa có HP. Đây là một điểm báo động cho lâm sàng” – PGS.TS.BS Quách Trọng Đức cảnh báo bệnh nhân có HP có nguy cơ tổn thương loét dạ dày – tá tràng và xuất huyết tiêu hóa rất cao.
Phòng ngừa biến chứng tiêu hóa do NSAIDs được chia thành phòng ngừa tiên phát và phòng ngừa thứ phát. Đối với phòng ngừa tiên phát, nên kiểm tra và diệt trừ H.pylori nếu có ý định sử dụng NSAIDs lâu dài. Cần đánh giá toàn diện các nguy cơ tiêu hóa, tim mạch để quyết định chiến lược phòng ngừa thích hợp.
PGS.TS.BS Quách Trọng Đức nhấn mạnh: “Tổn thương đường tiêu hóa dưới do sử dụng NSAIDs phối hợp với PPI là một bệnh lý mới nổi và có nguy cơ diễn biến với tần suất ngày càng tăng khiến vấn đề xử lý khá phức tạp. Do đó, để cân bằng được mối quan hệ này, cần phải cân nhắc sử dụng PPI đúng liều cho đúng bệnh nhân”.
Phương Linh – AloBacsi.vn
Chuyến viếng thăm Vườn tượng danh nhân Y học – Quy Nhơn, Bình Định
Nhân dịp lần đầu tiên Hội nghị nội soi tiêu hóa toàn quốc tổ chức tại Quy Nhơn, Bình Định vào ngày 19 – 20/04/2024, Ban chấp hành Liên chi Hội Khoa học Tiêu Hóa TPHCM cùng các đồng nghiệp đến viếng thăm Vườn tượng danh nhân Y học để tỏ lòng tri ân, trân trọng các nhà khoa học, các thầy thuốc mà cuộc đời của họ là những tấm gương lớn về nhân cách, về y đức, về lòng kiên nhẫn và sự lao động không mệt mỏi, đã cống hiến trọn đời mình để nghiên cứu, phát minh nhiều công trình khoa học rất giá trị phục vụ con người.
Vườn tượng là bức tranh thiên nhiên rất đẹp, nhiều màu sắc ở trên vùng đất của một thung lũng yên bình với ba bề được núi rừng che chở và mặt còn lại hướng ra biển Quy Nhơn với bãi cát phẳng lì, ngày đêm có sóng biển vỗ dạt dào. Vườn tượng đã có hơn 72 bức tượng, trong số đó có hơn 41 tượng danh nhân y học thế giới và có 31 tượng danh nhân Y học Việt Nam. Các danh nhân y học là những giáo sư đầu ngành của Việt Nam, những người thầy của nhiều thế hệ thầy thuốc y dược, có nhiều đóng góp lớn trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe bộ đội và nhân dân. Có thể kể đến bao gồm Hải Thượng Lãn Ông (1726-1791), Tuệ Tĩnh (1330-1400), Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), GS. Tôn Thất Tùng (1912-1982), GS. Hoàng Tích Trí (1903-1958), GS. Đặng Vũ Hỷ (1910-1972), BS. Hoàng Tích Mịnh (1904-2001), GS. Lê Kinh Duệ (1927-2001), GS. Từ Giấy (1921-2009), GS. Đỗ Nguyên Phương (1937-2008), GS.TSKH. Đặng Đức Trạch (1930-2004), GS. Nguyễn Xuân Nguyên (1907-1975), GS.TS. Trương Công Quyền (1908-2000), GS. Đặng Văn Chung (1911-1999), GS. Vũ Công Hòe (1911-1994), BS. Trần Hữu Nghiệp (1911-2006), GS. Trịnh Ngọc Phan (1914-1985), GS. Nguyễn Ngọc Doãn (1914-1987), GS. Hoàng Đình Cầu (1917-2005), GS. Chu Văn Tường (1922-2008), GS. Phạm Khắc Quảng (1912-2000), GS. Nguyễn Trinh Cơ (1915-1985), GS.TS. Võ Văn Vinh (1918-2010), GS.TS. Nguyễn Tăng Ấm (1919-2008), GS. Nguyễn Dương Quang, (1922-2015), GS. Đặng Thị Hồng Vân (1923-1997), GS. Nguyễn Như Bằng (1925-2012), GS. Dược học Lương Tấn Thành (1927-2010), GS.TSKH. Nguyễn Huy Phan (1928-1997), GS. Lê Quang Toàn (1928-2012), GS.TS. Nguyễn Trọng Nhân (1930-2017).
Dẫn đầu đoàn viếng thăm là BS. Trần Kiều Miên là con gái của Thầy Trần Hữu Nghiệp, thầy thuốc Nhân dân, người có công đào tạo nhiều thế hệ thầy thuốc trong 2 cuộc kháng chiến. Cuộc viếng thăm đong đầy cảm xúc và mang lại nhiều động lực cho các thế hệ trẻ tiếp tục sáng tạo không ngừng trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân.

BS CKII Trần Kiều Miên (Chủ tịch LCH Tiêu Hóa TP HCM và TS BS Vũ Tuấn Anh (Giám Đốc Bệnh Viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa) cùng đoàn viếng thăm Danh nhân Y học

BS Trần Kiều Miên chụp ảnh cùng Thân phụ – Thầy Trần Hữu Nghiệp

BS Trần Kiều Miên cùng đoàn viếng thăm Danh nhân Y học

Đoàn viếng thăm thắp hương cho các Danh nhân Y học
PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ ĐƯỜNG TIÊU HÓA TRÊN TỪ GÓC NHÌN ĐA CHUYÊN KHOA
Phối hợp giữa Liên chi hội Khoa Học Tiêu Hóa HCM và AstraZeneca Việt Nam
Chương trình đào tạo y khoa liên tục
PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ ĐƯỜNG TIÊU HÓA TRÊN TỪ GÓC NHÌN ĐA CHUYÊN KHOA
Hình thức: Trực tiếp tại TP.HCM
Chủ tọa:
BS.CKII Trần Kiều Miên
Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam
Chủ tịch Liên chi Hội Khoa học Tiêu hoá TP. Hồ Chí Minh
Báo cáo viên:
PGS.TS.BS. Quách Trọng Đức
Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu Hóa Việt Nam
TS.BS. Tăng Hà Nam Anh
Chủ tịch Hội Nội soi khớp và Thay khớp Việt Nam
TS.BS. Lê Khắc Bảo
Phó Chủ tịch, Hội Y học giấc ngủ Việt Nam
Giám đốc Trung tâm Giáo dục Y học, Đại Học Y Dược TP.Hồ Chí Minh


- « Previous Page
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- …
- 7
- Next Page »